Bướm cú đêm (Owlet Moths)
Bướm cú đêm (họ Noctuidae) chiếm hơn 25% tổng số các loài bướm và bướm đêm trên thế giới. Như chúng ta mong đợi, họ bướm đêm này rất đa dạng. Mặc dù có những ngoại lệ, hầu hết các loài bướm cú đêm đều có chung các đặc điểm được nêu dưới đây. Tên họ Noctuidae xuất phát từ tên Latinh, noctua có nghĩa là con cú nhỏ hoặc cú đêm (xuất phát từ nox, có nghĩa là ban đêm).
Đặc điểm nhận dạng
Theo như tên của chúng, bướm cú đêm có xu hướng sống về đêm. Nếu bạn đã từng thử đèn thu hút côn trùng, bạn chắc đã từng thu thập được một vài con bướm cú đêm, bởi vì hầu hết chúng sẽ tìm đến ánh đèn.
Bướm cú đêm là loài côn trùng to, khoẻ, thường xuất hiện với bộ râu chỉ. Cánh trước thường có các đốm, kín, hơi dài và hẹp hơn so với cánh sau. Hầu hết đôi cánh sau sẽ có màu sáng hơn, nhưng được giấu dưới đôi cánh trước khi chúng nghỉ ngơi. Một số loài bướm cú đêm có chòm lông trên lưng của phần cơ thể giữa cổ và bụng.
Bằng cách nghiên cứu chi tiết trên hệ gân cánh, bạn nên lưu ý 3 đặc điểm sau đây để xác định bướm cú đêm mà bạn thu thập:
- Gân sườn phụ (Sc) mọc gần đáy của cánh sau.
- Gân sườn phụ dính với các tế bào hình đĩa có bán kính ở cánh đôi cánh sau trong một thời gian ngắn.
- Ba tĩnh mạch hình khối mở rộng đến lề của cánh sau.
David L. Wagner đã ghi chép trong cuốn “Những loài sâu bướm ở miền Đông Bắc Mỹ”, không có những đặc điểm nhận dạng duy nhất cho loài sâu bướm trong họ Noctuidae. Nhìn chung, sâu bướm họ này thường màu xám, với lớp da ngoài láng bóng và 5 cặp chân giả. Sâu bướm của bướm cú đêm có tên gọi đa dạng, bao gồm “sâu đo”, “sâu kim” , “sâu lính” và “sâu cắt”.
Đôi khi bướm cú đêm được gọi theo các tên thông dụng khác, như “bướm đêm cánh sau” hoặc “sâu bướm đêm”. Họ này được chia thành một vài phân họ, mặc dù có một số bất đồng về phân loại của chúng, và một vài nguồn có thể đánh giá những nhóm này tách biệt hoàn toàn với họ này. Dưới đây là hệ thống phân loại trong ấn bản mới nhất của “lời giới thiệu của Borror và Delong về nghiên cứu côn trùng” mà tôi tin tưởng.
Phân loại
- Giới – Animalia (Động vật)
- Ngành – Arthropoda (Chân khớp)
- Lớp – Insecta (Côn trùng)
- Bộ – Lepidoptera (Bộ cánh vẩy)
- Họ – Noctuidae
Thức ăn
Ấu trùng (sâu bướm) có khẩu phần ăn rất đa dạng, phụ thuộc vào loài. Một số loài ăn lá cây tươi hoặc lá rụng, một số khác ăn chất vụn hoặc phân hủy chất hữu cơ và một số khác ăn nấm hoặc địa y. Một số loài chuyên ăn lá, và một số loài ăn rễ cây. Họ Noctuidae bao gồm một số loài gây hại đáng kể cho cây trồng nông nghiệp và cây cảnh.
Bướm trưởng thành thường ăn mật hoa hoặc các dich ngọt (do sâu bọ tiết ra). Một vài loài có khả năng đục lỗ lên trái cây, nhờ vào cái vòi sắc nhọn. Một loài bướm cú đêm rất bất thường (bướm đêm Calyptra eustrigata, hút máu động vật). Bạn chỉ lo lắng về loài bướm đêm hút máu này nếu không may bạn sống ở Sri Lanka hoặc Malaysia.
Vòng đời
Cũng như các loài bướm khác trên thế giới. Bướm cú đêm trải qua quá trình biến thái hoàn toàn, gồm 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng (sâu bướm), nhộng và trưởng thành. Hầu hết sâu bướm cú đêm hóa nhộng trong đất hoặc trong bãi lá khô.
Thích nghi & tự vệ
Bướm cú đêm có thể phát hiện và tránh những con dơi rất nhanh, nhờ vào cặp cơ quan màng thính nằm ở phần sau của ngực. Cơ quan thính giác có thể phát hiện tần số từ 3-100 kHz, cho phép chúng nghe thấy tần số của dơi đang đuổi theo và có hành động né tránh.
Phân bố
Trên toàn cầu, số lượng bướm đêm khoảng hơn 35,000 loài với sự phân bố trên toàn cầu. Chỉ tính riêng ở Bắc Mỹ, có xấp xỉ khoảng 3000 loài bướm cú đêm.
Hi vọng bài viết trên sẽ cung cấp cho bạn những thông tin cần thiết về bướm cú đêm Owlet Moths.
Dịch vụ diệt côn trùng Việt Thành